Bồn tắm

Gia vị Hy Lạp: hướng dẫn mua và nấu ăn sumac

Mục lục:

Anonim

Hình ảnh Dave King / Getty

Sumac trong tiếng Hy Lạp: υμάκ, phát âm là soo-MAH-kee

Ở chợ

Sumac thường được bán dưới dạng bột nghiền thô, có lẽ được gọi là "sumac ẩm thực bột", và cũng có thể được tìm thấy ở dạng berry. Nó có thể được tìm thấy ở thị trường Hy Lạp và Trung Đông.

Tính chất vật lý

Sumac là một loại cây bụi mọc hoang ở khu vực Địa Trung Hải, và loài sumac này không độc hay độc. Giống không độc này cũng phát triển ở các khu vực khác trên thế giới và có thể là một bổ sung đầy màu sắc cho cảnh quan nhà.

Sumac đất là một màu đỏ sẫm-burgundy. Là một loại quả mọng khô, sumac đất có kết cấu hạt khi sử dụng khô. Nó có vị chua, vị chanh chua.

Công dụng

Việc sử dụng sumac đến Hy Lạp từ Trung Đông, nơi nó được sử dụng rộng rãi hơn. Trong nấu ăn Hy Lạp, sumac được sử dụng như một chất chà cho các loại thịt nướng, và như một hương vị đáng chú ý nhất trên các loại thịt, trong các món hầm, và trong bọc pita. Nó cũng được sử dụng trong các món cơm và rau. Hãy thử thêm một dấu gạch ngang lên đỉnh của món khai vị để thưởng thức hương vị mới.

Thay thế

Không có sự thay thế tốt cho vị chanh chua của sumac, nhưng chỉ cần màu sắc, có thể sử dụng ớt bột.

Nguồn gốc, lịch sử và thần thoại

Tên sumac có nguồn gốc từ Aramaic "summaq" có nghĩa là "màu đỏ sẫm." Sự đa dạng của sumac "Rhus coriaria" được bán như một loại gia vị để nấu ăn, và đã được sử dụng trong nấu ăn trong nhiều thiên niên kỷ.

2.000 năm trước, bác sĩ Hy Lạp Pedanius Dioscorides (từ 40 đến 90 sau Công nguyên) đã viết trong cuốn "De Materia Medica" ("Về vấn đề y tế") về các đặc tính có lợi cho sức khỏe của sumac chủ yếu là thuốc lợi tiểu và chống đầy hơi khi nó được "rắc trong nước sốt" và trộn với thịt. Dioscorides phục vụ trong quân đội của Hoàng đế La Mã Nero với tư cách là bác sĩ, dược sĩ và nhà thực vật học.

Một thực tế của La Mã cổ đại tiếp tục ngày nay trong một số món ăn nhất định: quả sumac được đun sôi trong nước, để ráo nước và ép để chiết xuất tinh dầu của chúng. Dầu sau đó được trộn với dầu ô liu hoặc giấm, tùy thuộc vào loại nước sốt gia vị được làm. Dầu sumac hoặc giấm sumac sau đó được sử dụng giống như giấm và dầu ô liu thời hiện đại.

Người dân bản địa Bắc Mỹ (người Ấn Độ) đã sử dụng hai loài sumac bản địa Rhus glabra và Rhis aromatica South để chuẩn bị một loại nước pha chế tương tự như bia.